NGƯỜI THẮP LỬA
Trường tổ chức ngày thơ Việt Nam. Cô giáo Mỹ thuật đã nhận may thêu lá cờ thơ. Dẫn chương trình và nói chuyện truyền thống thi ca của dân tộc, về bài thơ Nguyên Tiêu của Bác Hồ đã có cô giáo văn đảm nhiệm. Học trò thích thú chuẩn bị thơ, mang sẵn trong cặp, thỉnh thoảng lại thập thò giở ra sửa chữa. Chúng kháo nhau: Hôm ấy sẽ có cô giáo lên ngâm bài thơ của Bác Hồ, đúng giọng ngâm thơ tứ tuyệt truyền thống. Nhưng sẽ là cô giáo nào thế nhỉ?
Buổi sinh hoạt lý thú mà học sinh háo hức mong đợi ấy đã đến. Là cờ thơ bay trong gió xuân trang nghiêm và uyển chuyển, khích lệ náo nức học trò. Cô giáo mảnh dẻ bước ra, áo dài bay nhẹ thướt tha. Bài thơ Nguyên tiêu nguyên bản âm Hán Việt ngân lên trang trọng, ấm áp gợi không khí cổ kính truyền thống. Rồi cô chuyển giọng ngâm bản dịch ra Tiếng Việt, câu thơ lục bát ngân lên trầm bổng, mượt mà. Cả sân trường im phắc, bỗng sôi lên tiếng vố tay, tiếng trầm trồ xuýt xoa thán phục. Người ngâm thơ ấy là cô giáo Phạm Khánh Hường, cô giáo dạy toán giỏi có tiếng, giáo giới môn toán cả thành phố này ai cũng biết, giáo viên toán trong tỉnh nhiều người cũng biết tiếng tăm. Học trò trong trường kính phục "Cô Hường Toán", hôm nay cô lại trình diễn thơ. Thật bất ngờ! Thế nên tiếng vỗ tay mới râm ran đến thế.
Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm Toán loại giỏi, cô Hường được ưu tiên về dạy ở thị xã tỉnh lỵ Hoàng Liên Sơn. Nhưng rồi người yêu cô được điều lên tỉnh Lào Cai biên cương tái lập, cô Hường theo chồng về làm dâu trên tỉnh Lào Cai biên viễn. Cuộc rước dâu phải qua hai chặng đường dài. Từ nhà gái ở Yên Bình đẫy một ngày đường lên Phố Lu, trạm dừng chân là cơ quan chú rể mới tập kết lên đóng tạm, sớm hôm sau mới đi tiếp lên Cam Đường rồi theo đò vượt dòng Sông Hồng chảy xiết đưa cô dâu sang nhà trai ở Làng Giàng thuộc xã Thái Niên. Cô về dạy toán ở trường thị xã mới khôi phục. Trường lớp dựng vội, học trò lèo tèo, đường sá mịt mù bụi đất. Những ngày hồ hởi khai mở và phấp phỏng băn khoăn qua nhanh. Thị xã đô thị mới dần hiện hình hài. Do yêu cầu và khát vọng chất lượng học hành nên trường Trung học cơ sở Chuyên Lê Quý Đôn được thành lập. Giáo viên từ nhiều nơi tụ về, đồng nghiệp gắn bó, cô trò gần gũi, cùng động viên khích lệ nhau, chỉ mong sao bớt kém cỏi thiệt thòi, đã dám đâu ao ước đua tranh với những tỉnh lớn, những thành phố to đã ắp đầy nối dài truyền thống. Ấy vậy mà thầy trò đã vươn lên được. Mày mò tích luỹ luyện rèn, lật tìm sách vở. Tìm học ở thầy mời từ Hà Nội, Hà Tây lên. Và học hỏi lẫn nhau. Bốn năm sau, học trò cô Hường đã đem về 4 giải Quốc gia môn Toán, với những giải "nặng cân". Hai em rinh về 2 giải Nhất, cả hai đều đạt điểm tuyệt đối 20 trên 20. Hai em giải Ba, trong đó có 1 em chỉ thiếu nửa điểm nữa là cập đến giải Nhì. Từ năm 1999, Bộ không tổ chức thi học sinh giỏi toàn quốc bậc Trung học cơ sở nữa. Cô trò trường Lê Quý Đôn như hụt hẫng, tiếc không được thi thố đọ sức tiếp với bạn bè cả nước để tự vươn lên. Giờ chỉ còn thi cấp Tỉnh, thi với chính mình, thi với những chuẩn yêu cầu kiến thức đặt ra. Và thi với những bài khó, những bài hóc búa. Mười năm qua, năm nào trường Lê Quý Đôn cũng dẫn đầu toàn tỉnh về số và chất lượng học sinh giỏi. Trong bảng thông báo kết quả của các kỳ thi, học sinh Trường Lê Quý Đôn đạt giải nối dài danh sách, mà môn Toán của cô Hường chiếm vị trí chủ công.
- Tổng cộng là bao nhiêu giải, số lượng nhất nhì cô có nhớ không?
- Em có danh sách lưu trong sổ, chứ em không nhớ hết.
- Đúng là khó nhớ hết được thật. Năm 2006 gặt hái rộ rạt, môn Toán lớp cô Hường đem về 16 giải, với 5 giải Nhất, 6 giải Nhì, 4 giải Ba và chỉ có 1 giải khuyến khích. Năm nào, học trò của cô cũng là lực lượng đông và mạnh trong lớp chuyên Toán và các lớp chuyên khác của Trường Trung học phổ thông Chuyên của tỉnh.
Tôi gợi mở để khai thác bí quyết chuyên môn: "Hường đỗ loại giỏi ở trường Sư phạm, học sinh trường Lê Quý Đôn hầu hết là học sinh "chọn", nên...". Cô Hường không chờ tôi hỏi hết câu đã hiểu ý. Cô thổ lộ chân thành:
- Đúng thế, nhưng không chỉ giản đơn như thế! Ban đầu tưởng như suôn sẻ, nhưng rồi nhận ra thực sự là mình chưa biết dạy...
Cô hồi tưởng lại những năm đầu, khi trường Lê Quý Đôn mới thành lập. Nếu dạy là giảng đủ, giảng đúng sách giáo khoa, rồi giảng đúng cách, đúng đáp số những bài trong sách thì cũng đã là khó. Giảng mãi, chữa mãi những bài ấy rồi cũng thuộc. Nhưng nếu chỉ có thế thì giúp được gì cho học sinh khá giỏi? Và cứ giảng tuột một chiều đi như thế thì khai mở, tháo gỡ được gì cho những em còn yếu? Thế nên phải tìm cách, phải trăn trở với học trò. Trăn trở với bài đã khó, nhưng chưa khó lắm, vì mình đã được học, mắc mớ chỗ nào thì mày mò trong sách, rồi đồng nghiệp chụm đầu lại tìm tòi, và hỏi chồng. Cô Hường có chồng là "dân Toán" giỏi từ trường phổ thông, nay là thầy giáo dạy Toán trường Cao đẳng Sư Phạm, có thể tháo gỡ giúp cô khi vướng mắc. Nhưng làm sao để cô có thể kích thích, gợi mở, tháo gỡ cho học trò vượt lên mới là khó. Chủ yếu tự mình phải lo thôi, vì chỉ có mình mới trực tiếp tiếp xúc với học trò, mới cảm nhận được cái chau mày của học trò khi các em bế tắc, cái vẻ mặt đăm chiêu khi các cô cậu ấy gặp mắc mớ, cái chờ đợi khao khát tìm ra cách giải ngắn và hay, cái ánh mắt sáng lên khi được giải toả. Mỗi cô mỗi cậu lại có một tình huống, một trạng thái hưng phấn hay ức chế, một sự đòi hỏi, mong đợi nơi cô. Cô giáo phải bắt đúng được cái giây phút ấy để mà bật khoá hé mở giúp, mà vỡ ra một con đường, mà nhen cho lửa cháy sáng lên. Không chỉ dạy Toán mà trong công tác chủ nhiệm cũng thế. Có nữ sinh không phải là học sinh giỏi, nhưng rất ngưỡng mộ cô Hường, em dẫn mẹ đến nhà cô chơi. “Mẹ ạ, cô là thần tượng của con!”. Thì ra cô đã tạo ấn tượng tốt đẹp trong em từ những chỉ bảo ân cần trong một lần nào đó mà cô cũng chẳng nhớ.
Với những em có tư chất ngay từ Tiểu học, thì việc giúp các em giỏi tiếp, giỏi hơn lên cũng chẳng dễ dàng gì. Thế mà có em từ mức độ tầm tầm mà đã vượt lên được. Cô Hường kể về em Nguyễn Tiến Quang từ nơi khác chuyển đến. Quang bộc lộ những thiếu hụt về kiến thức, những lúng túng sai lệch trong thao tác tìm tòi và lỗi tật trong kỹ năng. Nhưng rồi Quang được hướng dẫn, được uốn nắn bổ sung, được khích lệ, em đã vượt lên vững chắc. Cô bé Nguyễn Thị Huệ thuộc diện “chiếu cố” khi xét vào trường. Nhưng rồi gặp thầy gặp bạn, ngọn lửa đam mê Toán được nhen lên, Huệ dẫn đầu kỳ thi Toán cấp tỉnh. Học tiếp lên, Huệ thi đại học đạt ba điểm 10. Vào trường Đại học năm nào cũng là sinh viên xuất sắc.
Cô Hường trầm ngâm:
- Cấp học nào cũng quan trọng. Nhưng cấp Trung học cơ sở thì phải gắng tạo cơ sở cho các em học lên. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta đặt cho cái cấp học giữa của giáo dục phổ thông là Trung học cơ sở. Cơ sở là quan trọng lắm, sự thật là như thế chứ chẳng phải tự nói hay cho cấp học của mình.
“Kiến thức cô cho các em không nhiều. Nhưng cô sẽ cố đem đến cho các em niềm say mê và chỉ cho các em cách tìm tòi và suy nghĩ”. Cô Hường thường tâm sự với các em điều ấy. Cô thường cho các em nghi trong sổ tay và thuộc lòng câu châm ngôn: “Thông minh do học tập mà có, thiên tài do tích lũy mà nên.” Và câu này nữa của Ê- đi- xơn: “Tài năng 99% là cần cù, 1% là trí thông minh”. Cô hiểu con số so sánh ấy chỉ là ước lệ, nhưng câu nói và tấm gương tìm tòi nghiên cứu của nhà khoa học sáng chế vĩ đại ấy rất bổ ích với các em. Cô sưu tầm những số báo Toán học, về các tấm gương học hành cho học sinh cùng đọc. Có thông tin mới về thi Quốc tế, thi Quốc gia môn Toán và các môn khác là cô kể ngay để truyền lửa cho học trò. Mới rồi, cô rất thích thú khi đi dự lớp bồi dưỡng ở Hà Nội, cô đem về cuốn “Câu chuyện hấp dẫn về bài toán Fec ma” của Ac zel, do giáo sư tiến sỹ Toán học Trần Văn Nhung, Thứ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo dịch. Nhà Toán học Fec ma gặp một bài toán ngắn gọn nhưng để tìm ra lời giải thì cực kỳ khó khăn. Bài toán ấy là một thách đố với những bộ óc say mê Toán học. Fec ma ghi ra bên lề: “Tôi đã tìm được một cách giải thật tuyệt diệu cho bài toán này. Nhưng thật đáng tiếc lề sách không đủ rộng để ghi ra đây!”. Fec ma qua đời, bài toán còn đó. Lời Fec ma ghi bên lề sách vẫn được mọi người nhắc lại. Nhưng Fec ma đã giải bài toán ấy như thế nào thì không ai rõ. Bài toán ngắn gọn ấy vẫn là một thách đố với những bộ óc Toán học từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Phải đến 350 năm về sau, ba thế kỷ rưỡi sau mới có người giải được sau khi phải xây dựng cả một hệ thống định lý mới. Cuốn sách này là một tư liệu quý để cô Hường tiếp tục kích thích lòng ham mê Toán học, kích thích nghị lực học toán của học trò. Cuốn sách là món quà cho các em đầu năm học mới.
Cô Hường tâm niệm: Cô và trò phải đồng hành trong tìm tòi sáng tạo. Từng trang giáo án cô dành ra đến nửa trang theo cột dọc để ghi lại ý hay của học trò, để rồi các ý đó được tập hợp đúc kết lại. Nhiều bài toán học trò đã góp cho cô ba bốn cách giải. Có bài các cô cậu học trò góp vào đến sáu cách mà cô chỉ có một. Có khi trò năm sau không tìm ra cách của các anh chị năm trước, cô phải gợi mở cho mà thừa hưởng, nhưng có khi các em lại góp được cách mới hơn. Cô tập hợp, tích lũy tất cả lại, thành vốn cho mình và cho trò. Cô Hường đúc kết: “Dẫu thông minh có khi vượt trội, nhưng trò vẫn cần thầy, bởi thầy là người kích thích, là người gợi mở, và giúp các em chỉnh sửa, hoàn thiện. Các em thông minh nhưng không ít sai lầm, làm thầy là giúp các em sửa chữa sai lầm để không ngộ nhận”. Cô Hường bộc lộ từ chiêm nghiệm bản thân. “Em phải học thêm rất nhiều. Ngay như chuyện em lên ngâm thơ trong ngày Hội thơ là em cũng phải học chứ nào em có năng khiếu gì. Em học qua chương trình văn nghệ trên đài sau khi soạn bài hoặc chấm xong tập bài mới kiểm tra. Em xuống Kim Tân ngâm thử cho mẹ em nghe, mẹ em sửa cho chút ít rồi bảo được, thế là em mạnh dạn lên góp vui, cũng là để kích thích học trò. Trò hứng thú thì sẽ học tốt. Học trường Cao đẳng rồi lên Đại học tiếp, nhưng đó chỉ là những điều kiện cơ sở ban đầu. Phải học thêm nhiều. Phải học thêm qua từng bài giảng hàng năm. Học các anh, các chị và học bạn đồng nghiệp. Học chồng em. Và học học trò".
"Học học trò!" Kinh nghiệm này thật mới và quý lắm thay.
Trong câu chuyện tâm sự về chuyên môn này, anh Lê Dũng chồng cô ngồi bên cạnh là thầy cũ, là đồng nghiệp "dân toán", là cán bộ quản lý, chỉ đạo chuyên môn, thỉnh thoảng lại hào hứng bổ sung. Cắt ngang câu chuyện, có tiếng chuông điện thoại reo. Cô Hường xin lỗi đứng dậy nhấc máy. "Học trò cũ từ trường Đại học điện hỏi thăm tình hình lũ lụt ở Lào Cai quê mình. Chả là các em biết mấy năm trước, nước ngập đến gần chỗ nhà cô". Cô Hường đặt máy và tươi cười kể lại.
(Người viết: Nhà giáo ưu tú Cao Văn Tư- Bài viết được đăng trong tập truyện ngắn "Ước mơ từ thuở xa xăm và Văn nghệ Lào Cai, số 4(98) – Tháng 4- 2009)